Báo động ô nhiễm nguồn nước ngầm
Được cho là một tài nguyên quan trọng
và quý giá nhưng hiện nay, trữ lượng và chất lượng nguồn nước ngầm ở
Việt Nam đang ngày một suy giảm nghiêm trọng. Cụ thể, tình trạng ô nhiễm
nguồn tài nguyên nằm sâu trong lòng đất này đang ở mức báo
động, với những chỉ số hết sức đáng lo ngại. Bên cạnh yếu tố khách quan
là sự biến đổi khí hậu, tình trạng xâm thực của nước mặn thì nguyên
nhân quan trọng nhất vẫn chính là con người, với những chất thải công
nghiệp, chất thải khu dân cư, thuốc bảo vệ thực vật… đang làm biến đổi
nguồn nước ngầm hiện nay theo chiều hướng xấu đi.
Tài nguyên đang bị xâm hại
Theo
Tổng cục môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường thì ở nước ta, nước
ngầm chiếm khoảng 35% đến 40% tổng số lượng nước sinh hoạt của người
dân. Ngoài ra, nó còn là nguồn nước quan trọng của ngành nông nghiệp và
công nghiệp. Đặc điểm chính của nguồn nước ngầm ở Việt Nam là nó nằm sâu
trong lòng đất, cách mặt đất từ 25 cho tới 100 mét. Do địa hình nên
nước ngầm phân bổ khá đều, dọc khắp ba miền và rất phong phú bởi lượng
mưa ở nước ta là tương đối lớn. Cụ thể, cả nước hiện nay có khoảng gần
300 nhà máy có sử dụng nước ngầm để biến nguồn tài nguyên thiên nhiên
này thành sản phẩm phục vụ cuộc sống của con người. Cùng với đó là vô
vàn các giếng đào, giếng khoan tự phát của người dân vùng nông thôn tiếp
cận với nguồn nước ngầm để phục vụ sản xuất, tưới tiêu và sinh hoạt.
Với trữ lượng khai thác đạt chừng 20 triệu m3 mỗi ngày nên đây có thể
nói là tài nguyên cực kỳ quan trọng trong đời sống sinh hoạt cộng đồng.
Tuy nhiên, theo rất nhiều các chuyên gia môi trường, nước ngầm ở Việt
Nam đang bị xâm hại bởi những hóa chất độc hại từ những nhà máy, xí
nghiệp, khu công nghiệp và cả khu dân cư. Cộng thêm đó là sự xâm thực
của nước mặn khiến nước ngầm biến đổi, có tỷ lệ phèn cao khiến nó đang
mất dần giá trị sử dụng.

Trong
khi hầu hết các dòng sông với nguồn nước bề mặt ở Việt Nam đang biến
đổi bởi nạn ô nhiễm môi trường thì ai cũng có thể nhận ra, bằng mắt
thường hay bằng những phép kiểm tra đơn giản thì sự ô nhiễm của nguồn
nước ngầm lại khó thấy hơn. Mặc dù nước ngầm đã được thiên nhiên chắt
lọc bằng rất nhiều cơ chế khác nhau với sự thẩm thấu từ nguồn nước bề
mặt nhưng nó cũng bị ảnh hưởng rất nhiều của nguồn nước bề mặt, khi
nguồn nước này bị ô nhiễm. Những hóa chất độc hại mà các nghiên cứu gần
đây tìm thấy ở các mẫu nước ngầm khắp các địa phương như Hà Nội, TP HCM,
đồng bằng sông Cửu Long… đang gióng lên hồi chuông báo động về những
nguy hại mà chúng ta sẽ phải gánh chịu nếu không có những biện pháp kịp
thời bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này.
Dựa
theo kết quả của Trung tâm Quan trắc và Dự báo tài nguyên (Bộ Tài
nguyên và Môi trường), hầu hết các kết quả nghiên cứu về nước ngầm thời
gian vừa qua đều cho thấy rằng, nước ngầm đang bị ô nhiễm bởi những hóa
chất độc hại. Cụ thể, ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, lượng amoni lên đến
23,3 mg/l, cao hơn 200 lần so với quy định về an toàn. Ngoài ra, khoảng
60% các mẫu quan sát được có chứa chất Mn (Mangan) vượt quá hàm lượng
tiêu chuẩn hay khoảng 15% số mẫu thử có chứa hàm lượng Asen, một trong
những hóa chất độc hại đối với sức khỏe con người, xuất hiện ở trong
nước ngầm. Trong khi đó, tại khu vực đồng bằng Nam bộ, các mẫu quan sát
được cho thấy, các hàm lượng chất Mn và mê-tan cũng vượt ngưỡng cho
phép. Cá biệt, nhiều nơi ở khu vực miền Tây Nam Bộ, nơi có địa hình thấp
hơn, được bao
phủ bởi nhiều hệ thống sông ngòi thì những hóa chất này cũng nhiều hơn.
Cuối cùng, các số liệu chỉ ra rằng, chỉ có ở vùng Tây Nguyên, nơi có
địa hình cao hơn đồng bằng khoảng 600 đến 1.500 mét là có chất lượng
nguồn nước ngầm an toàn. Tuy nhiên, một vấn đề khác lạ nảy sinh với vùng
đất đỏ bazan bạt ngàn này là mực nước ngầm đang bị suy giảm nghiêm
trọng. Nghĩa là, nếu trước kia, mực nước ngầm ở độ sâu 30 đến 45 mét thì
nay, nhiều nơi giảm xuống tới hơn 50 mét. Vì thế, tình trạng hạn hán,
thiếu nguồn nước tưới tiêu, sinh hoạt khiến con người, cây trồng, vật
nuôi bị khát nước vừa qua đã khá phổ biến ở vùng Tây Nguyên. Nhiều người
dân than thở rằng, nếu trước kia chỉ cần đào sâu xuống lòng đất vài
chục mét là chạm tới nguồn nước ngầm để sinh hoạt, tưới cà phê thì nay,
họ phải dùng những mũi khoan lớn, có khi sâu hàng trăm mét mới có thể
tìm ra mạch nước ngầm để sử dụng. Điều đó cho thấy, nguồn nước ngầm ở
nhiều nơi đã sụt giảm nghiêm trọng, nhất là vào mùa khô khi mà trữ lượng
nước bề mặt cũng bị giảm sút.

Hậu
quả đầu tiên của tình trạng này là việc người dân đã phải sử dụng nguồn
nước ngầm bị ô nhiễm và rất nhiều nguy cơ bệnh dịch có thể mắc phải.
Như thời gian vừa qua, Bộ Y tế đã kiểm tra mẫu nước sạch tại Nhà máy
nước Tương Mai, nơi cung cấp nước cho hàng ngàn hộ dân ở quận Hoàng Mai
(Hà Nội) bằng nguồn nước ngầm thì phát hiện trong nước có chứa chất
Amoni và Manganat. Đặc biệt, khi hai hóa chất này kết hợp với nhau sẽ
sinh ra một số độc tố, gây hại trong cơ thể và có nguy cơ dẫn đến bệnh
ung thư cho người sử dụng. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong số các trường
hợp về ô nhiễm nguồn nước ngầm được phát hiện và xử lý mà thôi. Thói
quen sử dụng nguồn nước ngầm bằng cách đào giếng, khoan giếng xuống lòng
đất của người dân vẫn diễn ra ở hầu hết các vùng nông thôn trên khắp
đất nước và đó là nguy cơ nhưng lại không có giải pháp cụ thể để hạn
chế.
Lúng túng những giải pháp đồng bộ
Theo
Tổng cục Môi trường thì tình trạng ô nhiễm nước ngầm ở Việt Nam đã được
cảnh báo từ cách đây hàng chục năm. Tuy nhiên, mọi người chưa quan tâm
và cũng chưa có những giải pháp đồng bộ để bảo vệ nguồn nước ngầm do
thiếu kinh phí. Hơn nữa, việc kiểm soát nguồn nước ngầm cũng đang ngày
càng khó khăn hơn, đặc biệt là ở khu vực đô thị, nơi mà rất nhiều các
công trình xây dựng kiên cố được mọc lên khiến việc tìm hiểu nguồn nước
của cán bộ môi trường không được liên tục, đồng bộ. Trong khí đó, dân cư
ngày càng tăng khiến nước thải, nguồn nước có chứa nhiều độc tố thải ra
môi trường lại không được xử lý, là nguyên nhân trực tiếp làm ô nhiễm
nước ngầm.
Vì vậy, giải pháp đầu
tiên để bảo vệ nguồn tài nguyên nước ngầm hiện nay, theo các chuyên gia
trong lĩnh vực môi trường là phải tăng cường xây dựng các hồ, đập, khu
dự trữ nước bề mặt để làm sạch nguồn nước ngầm tự nhiên. Bên cạnh đó,
việc thiết lập một hành lang bảo vệ nguồn nước ở trên bề mặt đất cũng vô
cùng quan trọng. Nó là giải pháp lâu dài và không chỉ cần thiết với
nguồn nước ngầm mà còn là tài nguyên hệ sinh thái môi trường nói chung.
Ngoài
ra, việc phát hiện và kịp thời xử lý những nguồn nước ngầm bị ô nhiễm,
những đơn vị, đặc biệt là các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, làng
nghề thường xuyên thải ra môi trường những hóa chất độc hại để kịp thời
ngăn chặn, xử phạt. Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường phải hoàn
thiện các chế tài cụ thể, đủ sức răn đe với những người làm nguy hại đến
nguồn nước chung. Bên cạnh đó, việc xây dựng đường đê bao bờ biển và
các hệ thống đập ngăn mặn ở cửa sông cũng rất cần thiết. Nó ngăn chặn
hiệu quả sự xâm thực của nước mặn để giữ cho nguồn nước ngầm được trong
sạch hơn, tránh nhiễm phèn mặn quá mức quy định.
Cuối
cùng, yếu tố quan trọng nhất vẫn là tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp
hành để nâng cao ý thức, trách nhiệm, quyền lợi của người dân bởi chỉ có
như vậy, môi trường sống nói chung và sự bền vững của nguồn nước ngầm
mới được đảm bảo trong tương lai mà thôi.
Đoàn Đại Trí - doisongphapluat.com
0 Reviews:
Post Your Review